Tam bảo là ba ngôi báu là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Nếu nhân gian, coi lụa là gấm vóc ngọc ngà là vật báu, thỏa mãn lòng ham muốn. Nhưng trong Phật giáo, những thứ vật chất đó thật tầm thường. Bởi ngọc ngà vàng bạc dù có bao nhiêu cũng không thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Không thể vượt qua tam đồ, tam giới, lục đạo…
Chỉ ba ngôi báu của Phật giáo mới có thể dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Ba ngôi báu như ngọn đèn sáng mà chúng sinh có thể tin và làm theo, để thoát khỏi đau khổ, tìm sự hoan hỉ.
Phật bảo là “ngôi báu thứ nhất”, vì Ngài đã tìm ra nguồn Đạo giải thoát, dứt Khổ trọn Vui, vượt khỏi Sanh tử Luân hồi. Phật bảo là đấng giác ngộ đầu tiên, tìm ra chân lý cũng như phương pháp tu hướng đến giải thoát, giảm nhẹ và xóa bỏ khổ đau trong cuộc đời. Đức Thích-ca Mâu-ni được tôn là Phật, phiên âm từ tiếng Phạn là Buddha, nghĩa là “bậc giác ngộ”.
Pháp bảo: Phật truyền dạy chân lý và phương pháp tu tập được gọi là Pháp. Pháp là phương tiện để thực hành đúng để giác ngộ và đạt đến sự giải thoát. Pháp có năng lực chữa trị Phiền não Tâm bệnh của chúng sinh trong Tam giới nên được tôn xưng là “ngôi báu thứ hai” là Pháp bảo.
Tăng bảo: là người rời bỏ gia đình dành trọn cuộc đời để thực hành theo giáo pháp của đức Phật, hướng đến giải thoát, giác ngộ, nên gọi là chư tăng. Cùng nhau tu tập trong tập thể gọi là Tăng-già hay Tăng đoàn. Chư tăng nêu gương sáng trong việc làm đúng lời Phật dạy và truyền cho nhiều người khác. Vì các Ngài thay mặt ba đời chư Phật, hướng dẫn, dắt dìu con người thoát khỏi đường Mê, nẻo Tối, tu hành đến nơi dứt Khổ. Các ngài được tôn xưng là Tăng bảo hay “ngôi báu thứ ba”.
Ban Tam Bảo thờ ai? Cách bố trí thế nào?
Chính điện thờ Phật còn gọi là Phật điện, Ban tam bảo, Đại hùng bảo điện. Trong đó đặt lên hàng đầu là triết lý vô thường của Phật giáo thể hiện qua tam thân Phật, chính là “Pháp thân”, “Báo thân” và “Ứng thân”.
Lớp thứ nhất thờ “Pháp thân Phật”: Trên cùng là Tam thế tam thiên Phật hay tượng Tam thế, nghĩa là ba nghìn vị Phật từ quá khứ, hiện tại, tương lai.
Với ba pho, một dáng chung là ngồi kiết già, ở giữa là Hiện tại thế, bên trái là Quá khứ thế, bên phải là Vị lai thế.
Lớp thứ hai thờ “Báo thân Phật”: Hàng tượng Di đà đại điện cho từ tâm và trí tuệ. Phật A Di Đà ở giữa thể hiện tám tính, phân thân thành Quan thế âm Bồ tát bên trái và Đại thế chí Bồ tát bên phải.
– Phật A-di-đà ngồi giữa tạc trong tư thế tọa thiền, xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, mắt nhìn xuống suy tư, khuôn mặt đôn hậu, miệng hơi mỉm cười Phật A Di Đà của thế giới Tây phương cực lạc, tiếp dẫn người có công đức sang thế giới cực lạc Tây phương.
– Bồ Tát Ðại Thế Chí đứng bên tay phải cầm cành hoa sen màu xanh. Là vị hộ pháp giúp Phật A Di Đà, giáo hóa chúng sinh, trừ gian diệt ác. Là đức tinh tấn và trí tuệ, như ngọn đèn soi rọi các tà vọng thiện ác. Hạnh nguyện đại lực, đại hùng, đại tinh tấn chiếu khắp chúng sanh, chuyển hóa phiền não.
– Bồ Tát Quán Thế Âm đứng bên tay trái cầm bình tịnh thủy và nhành dương liễu. Là người nghe tiếng kêu từ chúng sinh trong trần gian để tới cứu khổ. Mang lòng nhân ái, vị tha, không phân biệt ai, yêu thương tất cả chúng sinh trong thiên hạ.
Lớp thứ ba thờ “Ứng thân Phật”: Đức Thích Ca tay giơ đóa sen, ngồi kiết già ở giữa, A Nan Đà bên phải, Ma Ha Ca Diếp bên trái.
Lớp thứ tư: Tượng Tuyết Sơn mô tả bảy năm tu khổ hạnh mà không tìm thấy chân lý của Đức Thích Ca. Tạo hình khắc khổ, mắt trũng sâu, chân tay gầy guộc, tiều tụy nhưng suy tư thanh thản, thân tĩnh tại, ung dung.
Lớp thứ năm: Bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, với Phật Di lặc ngồi giữa, hai bên là Pháp Hoa Lâm Bồ tát và Đại Diệu Tường Bồ tát. Hoặc Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
Lớp thứ sáu: Tòa Cửu Long ở giữa, bên trái là Ngọc hoàng: vua của cõi trời có hình tướng và bên phải là Đế Thích: vua của cõi trời không còn hình tướng.
Tòa Cửu Long xây dựng theo tích Thích Ca sơ sinh, Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh trong hình dạng chú bé, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất. Xung quanh có chín con rồng hướng phía mặt ra ngoài, mô tả các tầng trời, với các vị Phật ngồi kiết già, các vị Kim Cương Hộ pháp và Bồ tát..