Trong kinh Pháp hoa, Phật dạy rằng chân lý chỉ có một, nhưng phương tiện có nhiều vô số. Vì tùy theo nghiệp của từng người, từng loài, từng nơi, từng lúc khác nhau mà Phật nói các pháp tương ưng khác nhau.

Vì vậy, người học Phật thấy giáo lý Phật dạy mình trong các pháp phương tiện đó, pháp nào thích hợp thì sử dụng, nhằm mục tiêu duy nhất là được giải thoát; vì Phật nói pháp Phật chỉ có một vị giải thoát.

Người không biết, chấp pháp phương tiện, sẽ không hết phiền não, không được giải thoát, nghiệp chướng của mình lại tăng; kinh Pháp hoa gọi đó là uống lầm thuốc, thuốc trở thành độc. Uống đúng thuốc thì độc cũng trở thành tốt. Ngài Long Thọ nói thầy thuốc giỏi sẽ chuyển độc thành thuốc. Thí dụ nọc rắn hổ mang rất độc hại, nhưng có thể chế biến thành thuốc.

Tôi mong Tăng Ni, Phật tử chọn pháp thích hợp với mình để tu, không chấp chặt pháp mà tự ràng buộc mình. Thí dụ Phật thành đạo, giữa Phật và chư Phật mười phương thông nhau thành một thế giới là thế giới của tâm, thường gọi là Tịch Quang chơn cảnh, hay Thường Tịch Quang tịnh độ, hay Niết-bàn của chư Phật.

Thế giới này không có ngăn cách, nhưng bức tường ngăn cách đầu tiên do thức sanh ra. Mà thức duyên khởi từ vô minh và vô minh sanh hành. Vì vậy, nếu chúng ta dẹp bỏ được vô minh và hành uẩn, duyên khởi trong sinh tử được cắt đứt. Điểm quan trọng ở cốt lõi này, nhưng tất cả mọi người không thể đi vào con đường này được; cho nên lúc đó, Phật muốn vào Niết-bàn.

Tuy nhiên, vì thế giới Phật thông thành một cõi, nên mười phương Phật hiện ra và Trời Đại Phạm thỉnh Phật thuyết pháp. Trong thời gian này, chúng ta nói là 21 ngày Phật ngồi thiền dưới cội bồ-đề. Bên ngoài thấy Phật ngồi lặng yên, không nói, đó là cái thấy của người kẹt thức, nói rộng ra là kẹt ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Vì kẹt ngũ uẩn, mọi người không thông được thế giới Phật, tức không thấy thế giới Phật, tất nhiên không tham dự được, nên không biết. Vì vậy, nói rằng Phật thuyết pháp trong Thiền định và đỉnh cao của Phật giáo là Thiền, nhưng phải hiểu rằng từ định mới có Thiền. Định là tập trung và Thiền là quán chiếu, thấy thật tướng các pháp, gọi là đắc đạo. Nội dung mà Phật muốn dạy là điểm này và cốt lõi Pháp hoa cũng nhằm chỉ điều này. Nhưng mọi người không nắm bắt được nội dung đó, vì tất cả các loài đều kẹt ngũ uẩn, kể cả chư Thiên cũng còn kẹt ngũ uẩn, nhưng họ khác với loài người chúng ta là họ có thân ngũ uẩn vi tế mà chúng ta không thấy bằng mắt được.

Thức ấm ma là gì?

Chư Thiên còn kẹt vào thân ngũ uẩn của chư Thiên, cho đến chư Thiên ở Ngũ Tịnh Cư thiên tận cùng Sắc giới cũng kẹt ngũ uẩn. Và qua đến cõi Trời Tứ Không thiên, tuy không kẹt sắc, nhưng còn kẹt thức uẩn.

Khi tìm đạo, Thái tử Sĩ Đạt Ta học với ông Kamala. Ông này đã chứng được cảnh giới Tứ thiền thiên và chỉ cho thái tử con đường tu để đi đến cảnh giới này.

Thái tử Sĩ Đạt Ta tu rất nhanh, vì kinh Pháp hoa nói rằng Ngài là Phật hiện lại. Trong phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16, Đức Phật cũng khẳng định điều này rằng trời, người, A-tu-la ở trong sáu đường sinh tử nghĩ Ta là Sĩ Đạt Ta xuất thân dòng họ Thích mới đi tu và ngồi dưới cội bồ-đề gần thành Già Da mà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng sự thật từ Ta thành Phật đến nay đã trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. Nghĩa là Phật hiện thân lại, ví như ông trưởng giả giàu có nhất, nhưng vì muốn gần cùng tử, ông phải cởi đồ trang sức, mặc đồ thô rách chỉ cho thân tứ đại ngũ uẩn.

Cũng vậy, bề ngoài Đức Phật mang tướng phàm phu, nhưng bên trong Ngài là Phật, như phẩm Như Lai thọ lượng đã nói rõ. Tuy nhiên, dù là Phật hay Bồ-tát mang thân tứ đại cũng phải chịu sự chi phối của ngũ uẩn.

Tôi nhớ Hòa thượng Thanh Từ nói Bồ-tát còn mê khi cách ấm, tức Bồ-tát mang thân phàm phu vô cũng là phàm  phu. Muốn trở về vị trí Phật, Bồ-tát, A-la-hán của mình phải có quá trình tu, cởi bỏ những gì của phàm phu. Vì vậy, có người tu nhanh, người tu chậm.

 Người tu nhanh, vì đã có quá trình tu đời trước. Điển hình là Hòa thượng Thanh Từ trông thấy Hòa thượng Thiện Hoa ở Trà Ôn, liền khởi tâm buông bỏ tất cả để đi tu. Người có căn lành đời trước đã tu, nên đời này xuất gia, tiến nhanh và tiến xa hơn người; nếu căn lành đời trước không có thì đời này không được như vậy. Hòa thượng Thanh Từ là giảng sư, nhưng khác các giảng sư khác, nên tôi nói Ngài là Thiền sư sanh lại. Cốt lõi bên trong là Thiền sư, nên Ngài rất thích thiền.

Người tu bắt chước, cũng ngồi thiền, nhưng không đạt kết quả, hay chỉ mới phát tâm thôi. Kinh Pháp hoa gọi là kết duyên, thấy người thiền, tụng kinh, niệm Phật, mình cũng làm như vậy, nhưng mình chỉ bắt chước được hình dáng ngồi thôi, còn thế giới thiền mình không vô được. Trở thành Thiền sư đúng nghĩa, mấy ai làm được.

Người có căn tánh thông lợi, hay cao hơn, là Thiền sư tái sanh, hoặc Thánh Tăng hiện lại thì khác. Thí dụ Đức Phật mang thân Thái tử Sĩ Đạt Ta, cũng là thân người, nhưng Ngài có ngũ nhãn, lục thông, tức đạo lực vượt trội mà hàng phàm phu không thể có.

Trong khi tất cả mọi người thấy thái tử là hài nhi và chúc mừng vua Tịnh Phạn sanh được thái tử nối ngôi, nhưng Tiên A Tư Đà sụp lạy, khóc. Vì vậy, kinh Pháp hoa nói có người thấy Phật, người không thấy Phật. Vì Phật mang thân ngũ uẩn, nên mọi người nói Ngài là người bình thường như bao người khác. Chỉ có Tiên A Tư Đà biết Ngài là Phật hiện lại. Người ta mới hỏi ông có điềm gì xấu mà ông khóc. Ông nói mình có nỗi buồn vì đã 120 tuổi, nhưng Phật mới hiện ra đời. Và 30 năm sau, Ngài thuyết pháp, ông không còn trên cuộc đời, nên ông khóc, nhưng ông mừng cho vua đã sanh được quý tử.

Nhìn con người, nhưng điều quan trọng mà người học Phật, thấy Phật là thấy con người bên trong tiềm ẩn trong hình tướng bên ngoài. Phật dạy rằng cái chân thật có từ bên trong mà hiện ra bên ngoài, gọi là phi trung, phi ngoại.

Thực tế cho thấy người có căn tánh thanh tịnh sẽ hiện tướng giải thoát bên ngoài. Người giả tu thì không thể làm được. Lúc Hòa thượng Thanh Từ  là giảng sư, nhưng tôi thấy Ngài là Thiền sư, vì thấy cách nói, cách đi đứng của Ngài khác người thường, vì tánh bên trong, tâm bên trong thanh tịnh mới hiện được tướng bên ngoài giải thoát.

HT.Thích Trí Quảng