Từ lâu, các chùa thuộc Bắc truyền thực hành các nghi lễ cầu an và cầu siêu với những bài kinh quen thuộc. Về cầu siêu, hai bản kinh thường được chọn để tụng cầu siêu là kinh A Di Đà và kinh Địa Tạng. Kinh A Di Đà ngắn hơn nên thường bị xem nhẹ về hiệu quả siêu thoát mặc dù đó là một sai lầm đáng tiếc. Lý do là rất nhiều người căn cứ vào độ dài của kinh và thời gian tụng của chư Tăng Ni hành lễ hay của đạo tràng cư sĩ tại gia hơn là căn cứ nội dung của kinh.

Bài viết sẽ tìm hiểu phương pháp cầu siêu – báo hiếu theo kinh Địa Tạng và sự thực hành theo sự tín ngưỡng lâu nay của quần chúng. Bài viết sử dụng hai bản dịch kinh Địa Tạng của HT.Thích Trí Tịnh và TT.Thích Nhật Từ làm cơ sở trích dẫn.

 Xuất xứ kinh Địa Tạng

Kinh Địa Tạng thuộc kinh số 412, bộ Đại tập, theo Đại chánh tân tu Đại tạng kinh. Kinh Địa Tạng được tin do Đức Phật nói cho Thánh mẫu Ma Da ở cung trời Đao Lợi. Kinh nêu những nguyên nhân khiến chúng sinh đọa vào các cõi ác là ngạ quỷ, địa ngục. Đồng thời, kinh cũng đưa ra các phương pháp để cứu các chúng sanh đọa cõi ác được siêu thoát. Trong trường hợp người con, cháu cầu siêu cho cha mẹ, tổ tiên siêu thoát thì hành động ấy được xem là báo hiếu khi người thân không còn sống ở đời.

Nguyên nhân đọa các đường ác

Có thể nói kinh Địa Tạng là bản kinh miêu tả khá nhiều về địa ngục hay tù ngục cũng như các hình phạt, nhưng nguyên nhân đưa đến đọa vào ngục trong một số trường hợp thì khá đơn giản. Trong kinh Tăng chi, Đức Phật dạy có 5 nghịch tội đưa đến địa ngục, gồm: “đoạt mạng mẹ, đoạt mạng cha, đoạt mạng vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy máu, và phá hòa hợp Tăng”(1). Kinh Địa Tạng cũng có ghi nguyên nhân đọa địa ngục thuộc 5 nghịch tội như giết cha, giết mẹ, hủy hoại thân Phật và thêm nhiều nguyên nhân khác như phỉ báng Tam bảo, trộm của thường trụ, không giữ giới… (sđd, tr.30-31, 42-43). Tuy nhiên, trường hợp đọa địa ngục của thân mẫu Thánh nữ thì do mê tín, khinh chê Tam bảo (sđd., tr. 20); và của thân mẫu Quang Mục thì do nghiệp giết hại và nghiệp mắng nhiếc (sđd, tr. 43, 58). Căn cứ vào các nguyên nhân đưa đến đọa địa ngục thì hầu như chúng sanh đều phạm vào tội tương tự và nghiệp lực đưa đến địa ngục là rất có thể xảy ra. Về nguyên nhân đưa đến địa ngục, có rất nhiều bài kinh ghi chép lại. Ví dụ trong kinh Tăng chi, Đức Phật nêu năm pháp dẫn đến địa ngục gồm: “sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men rượu nấu”(2). Đây là 5 pháp học hay 5 giới của người Phật tử. Nói chung, cả kinh Nguyên thủy và kinh Đại thừa đều nêu nguyên nhân đưa đến địa ngục, nhưng kinh Địa Tạng nêu thêm việc mê tín và xúc phạm Tam bảo.

Phương pháp cầu siêu-báo hiếu

Có thể nói, điểm mạnh để kinh Địa Tạng được sử dụng tụng vào các thời khóa cầu siêu là việc tụng kinh được tin sẽ làm cho người thân qua đời siêu thoát (kinh không nêu vãng sanh Cực lạc). Một số phương pháp được nêu ra trong kinh để cho những ai tin thực hành theo. Khi có người bị bệnh nặng sắp qua đời, gia đình bà con nên dùng tài sản của người bệnh làm điều thiện như ấn tống, xây chùa, cúng dường Tam bảo, bố thí… và cho họ biết việc làm ấy thì sau khi qua đời họ sẽ thoát khổ tù ngục (sđd., tr.65). Các hương linh nếu chưa siêu thoát thì nhờ người thân tụng kinh Địa Tạng 3 đến 7 lần thì sẽ siêu thoát (sđd., tr.67). Nếu một người chết trong 49 ngày được người thân làm phước hồi hướng thì hương linh thoát đường dữ sinh lên cõi trời (sđd., tr.75, 79). Tụng kinh cho người thân qua đời nghe thì họ sẽ được thoát khỏi đường dữ (sđd., tr.91). Nếu người thân vì người bệnh niệm Phật thì người bệnh khi chết khỏi bị quả khổ (sđd., tr.99). Các hương linh nếu chưa tái sanh nhờ công đức người thân chiêm lễ cúng dường Bồ-tát Địa Tạng sẽ được sinh về cõi trời hay cõi người.

 Điểm chung của phương pháp cầu siêu là nhờ sự giúp đỡ của người trong gia đình hay bà con qua việc tụng kinh Địa Tạng và lấy số lượng làm cơ sở siêu thoát, và qua việc làm phước. Như vậy, người thân chỉ việc làm chút phước báu và tự tụng hay mời người tụng kinh Địa Tạng cho đủ số lượng thì người thân qua đời sẽ thoát cõi khổ, sanh cõi trời hay cõi người (kinh không đề cập sinh Tây phương Cực lạc). Xem ra việc cầu siêu cũng khá đơn giản mà ai cũng làm được nhưng kết quả thực thì phần lớn dựa nào niềm tin hơn là nhân quả. Trong bảy phần phước báu, người chết hưởng một phần (sđd., tr.78) nên việc thọ hưởng và siêu thoát của họ có lẽ là khuyến khích nhiều hơn. Chính người tự mình làm phước, tự mình tu tập mới là điểm chính của ý kinh vì xác suất gấp bảy lần.

Sự thực hành của quần chúng 

Có lẽ dựa vào lời phát nguyện của Bồ-tát Địa Tạng qua các tiền thân được miêu tả trong kinh, dựa vào nội dung hướng dẫn làm phước và đặc biệt dựa vào nội dung “tụng 3 đến 7 biến kinh Địa Tạng thì các hương linh được giải thoát” nên nhiều tín đồ tin đã làm công việc tụng kinh để cầu siêu cho người qua đời. Vì Tăng Ni không có thời gian để thường đi tụng kinh Địa Tạng tại các tư gia, nên công việc này do các nhóm cư sĩ thực hiện. Và với nội dung vừa nêu trên, họ tin rằng cứ tụng đủ số lượng là hương linh siêu thoát. Giải thoát ở đây không phải khỏi đường ác để sinh cõi trời người mà là khỏi đường ác để vãng sinh Tây phương. Đây là điểm mạnh để các nhóm tụng kinh có cơ hội phục vụ quần chúng tín ngưỡng.